Type truyện cô Lọ Lem ở Việt Nam và một số nước châu Á
- Thứ năm - 30/05/2019 09:55
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Truyện cổ tích vừa giàu tính dân tộc vừa mang tính quốc tế. Qua Bảng mục lục tra cứu type và motif truyện dân gian của Arne - Thompson, chúng ta thấy rõ rằng giữa các dân tộc có nhiều type truyện (kiểu truyện) giống nhau. Trong đó type truyện Cô Lọ Lem – Tấm Cám (510A, A – T) là một type truyện cổ tích rất phổ biến không chỉ ở Việt Nam, Đông Nam Á, mà còn ở nhiều nước châu Á và trên thế giới. Sơ bộ thống kê có thể tìm thấy số dị bản ở Việt Nam là 38, Hàn Quốc có hơn 5 bản truyện, Nhật Bản có 40 truyện, miền Nam Trung Quốc có đến 47 bản truyện và Ấn Độ tìm thấy khoảng 8 bản truyện… Với số lượng hàng trăm dị bản ở khắp các nước có thể coi đây là type truyện “nổi tiếng nhất” trong kho tàng truyện dân gian của nhân loại.
Tìm hiểu về type truyện này đã có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề của truyện từ nhiều khía cạnh khác nhau và bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể trong sự so sánh truyện của Việt Nam với các nước ở Châu Á.
Kế thừa các công trình nghiên cứu trên thế giới và mong muốn có một cái nhìn toàn diện hơn, trong bài báo này chúng tôi đi sâu nghiên cứu type truyện Cô Lọ Lem ở Việt Nam và một số nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và đặc biệt là Ấn Độ theo phương pháp cấu trúc – loại hình, phương pháp phân tích so sánh type truyện và motif. Chúng tôi chủ yếu quan tâm đến sự tương đồng và khác biệt về nội dung, kết cấu và các motif cấu thành nên truyện, từ đó lý giải về văn hóa dân tộc ẩn chứa trong đó, tìm ra cội nguồn và hiểu được “đời sống thực” của truyện. Chúng tôi chọn một số truyện tiêu biểu để phân tích như: Tấm Cám (type Tấm Cám củaViệt Nam), Nàng Diệp Hạn, Muội Sẹo và Muội Xinh (type Cô Lọ Lem của Trung Quốc), Kông Chuy Pát Chuy (type Cô Lọ Lem – Kongwi và Patjwi của Hàn Quốc), Benizara và Kakezara (type Cô gái có duyên ngầm của Nhật Bản), Dêvkî Rânî (type Cô Lọ Lem của Ấn Độ)
Type truyện cô Lọ Lem ở Việt Nam và một số nước châu Á
Nguyễn Thị Thu Trang (2017), “Type truyện Cô lọ Lem ở Việt Nam và một số nước châu Á”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr.1111-1120.
Mở đầu
Truyện cổ tích vừa giàu tính dân tộc vừa mang tính quốc tế. Qua Bảng mục lục tra cứu type và motif truyện dân gian của Arne - Thompson, chúng ta thấy rõ rằng giữa các dân tộc có nhiều type truyện (kiểu truyện) giống nhau. Trong đó type truyện Cô Lọ Lem – Tấm Cám (510A, A – T) là một type truyện cổ tích rất phổ biến không chỉ ở Việt Nam, Đông Nam Á, mà còn ở nhiều nước châu Á và trên thế giới. Sơ bộ thống kê có thể tìm thấy số dị bản ở Việt Nam là 38, Hàn Quốc có hơn 5 bản truyện, Nhật Bản có 40 truyện, miền Nam Trung Quốc có đến 47 bản truyện và Ấn Độ tìm thấy khoảng 8 bản truyện… Với số lượng hàng trăm dị bản ở khắp các nước có thể coi đây là type truyện “nổi tiếng nhất” trong kho tàng truyện dân gian của nhân loại. Tìm hiểu về type truyện này đã có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề của truyện từ nhiều khía cạnh khác nhau và bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể trong sự so sánh truyện của Việt Nam với các nước ở Châu Á. Kế thừa các công trình nghiên cứu trên thế giới và mong muốn có một cái nhìn toàn diện hơn, trong bài báo này chúng tôi đi sâu nghiên cứu type truyện Cô Lọ Lem ở Việt Nam và một số nước châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và đặc biệt là Ấn Độ theo phương pháp cấu trúc – loại hình, phương pháp phân tích so sánh type truyện và motif. Chúng tôi chủ yếu quan tâm đến sự tương đồng và khác biệt về nội dung, kết cấu và các motif cấu thành nên truyện, từ đó lý giải về văn hóa dân tộc ẩn chứa trong đó, tìm ra cội nguồn và hiểu được “đời sống thực” của truyện. Chúng tôi chọn một số truyện tiêu biểu để phân tích như: Tấm Cám (type Tấm Cám củaViệt Nam), Nàng Diệp Hạn, Muội Sẹo và Muội Xinh (type Cô Lọ Lem của Trung Quốc), Kông Chuy Pát Chuy (type Cô Lọ Lem – Kongwi và Patjwi của Hàn Quốc), Benizara và Kakezara (type Cô gái có duyên ngầm của Nhật Bản), Dêvkî Rânî (type Cô Lọ Lem của Ấn Độ)1. Cấu trúc và nội dung của type truyện
Khi khảo sát các truyện trong type truyện cô Lọ Lem của Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ, chúng tôi nhận thấy có thể chia những truyện đó thành hai loại. Loại thứ nhất gồm những truyện có cấu trúc đơn giản, có một lớp truyện, kết thúc ở chỗ cô gái con riêng sau khi thử giày hoặc thể hiện một tài năng gì đó, lấy được người chồng xứng đáng (thường là vua, hoàng tử hoặc người có địa vị cao). Còn mẹ con mụ dì ghẻ bị trừng phạt. Cấu trúc Type thuộc loại này gồm bốn phần chính: I. Cô gái con riêng và người chị em cùng cha khác mẹ; II. Sự giúp đỡ thần kì; III. Lấy được hoàng tử. IV. Sự trừng phạt. Loại cấu trúc đơn giản này thường có ở type truyện Cô Lọ Lem – Cô Tro Bếp của châu Âu, châu Phi còn ở Châu Á thì không nhiều. Theo kết cấu này thì truyện của Nhật Bản (bản truyện tiêu biểu là Benizara và Kakezara - Chiếc đĩa đỏ và chiếc đĩa vỡ) [6, tr327-331] được xếp vào loại thứ nhất, chỉ dừng lại ở phần IV của nội dung type truyện. Truyện kể về cô gái con riêng Benizara chăm chỉ, tốt bụng và thông minh. Còn cô gái con mụ dì ghẻ độc ác là Kakezara thì lười biếng, xấu bụng và ngu dốt. Một ông chủ - quý ông giàu có tình cờ nhìn thấy cô gái mồ côi Benizara ở buổi xem kịch, trong trang phục kimônô rất đẹp do chiếc hộp thần kì của bà mẹ yêu tinh trong núi ban cho. Câu chuyện kết thúc ở chỗ ông chủ giàu có đi tìm cô. Ông nhận ra cô gái con riêng qua bài hát – bài thơ mà cô đã sáng tác và hát theo điều kiện thể lệ cuộc thi thực tế do quý ông đặt ra. Sau đó Benizara được đưa lên kiệu hoa đẹp về dinh thự của ông chủ. Còn Kakezara bị trừng phạt ngã xuống một con mương sâu mà chết khi mẹ cô muốn kéo cô đến dinh thự của quý ông giàu có kia. Loại thứ hai gồm những truyện có cấu trúc phức tạp, đầy đủ, gồm hai lớp truyện trở lên, không kết thúc ở chỗ cô gái con riêng lấy được chồng giàu sang và sống hạnh phúc, mẹ con người dì ghẻ nhận sự trừng phạt mà có sự phát triển thêm nhiều motif, nhiều tình tiết về những khó khăn, thử thách đặt ra cho nhân vật, kể về cô gái con riêng hiền hậu, ngây thơ đó bị mẹ con mụ dì ghẻ tìm cách giết hại nhiều lần. Cấu trúc Type thuộc loại này gồm sáu phần chính: I. Cô gái con riêng và người chị em cùng cha khác mẹ; II. Sự giúp đỡ thần kì; III. Lấy được hoàng tử; IV. Sự hãm hại và hóa kiếp nhiều lần; V. Nhận ra và đoàn tụ; VI. Sự trừng phạt. [4, tr423-424] Khác với truyện của Nhật Bản, truyện của Việt Nam, Hàn Quốc và Ấn Độ thuộc loại kết cấu thứ hai, đều gồm sáu phần và có thêm nhiều tình tiết phức tạp hơn. Cô gái con riêng sau khi lấy được chồng hoàng tử vẫn tiếp tục bị mụ dì ghẻ hãm hại và phải hóa kiếp nhiều lần dưới nhiều hình thức khác nhau. Sau cùng trở lại làm người đẹp hơn trước và đoàn tụ với chồng. Còn mẹ con mụ dì ghẻ cuối cùng bị trừng phạt thích đáng. Trong truyện Tấm Cám của Việt Nam (bản kể của Vũ Ngọc Phan) [7, tr868-874], nhân vật Tấm - cô gái con riêng hiền lành ngây thơ và tốt bụng đã bị mẹ con mụ dì ghẻ hãm hại (chặt đổ cây cau khiến cho Tấm ngã xuống ao chết) để thay thế con gái mụ làm hoàng hậu. Cô gái con riêng đã phải hóa kiếp nhiều lần, biến hóa dưới nhiều hình thức: loài vật – cây - quả và sau cùng trở lại làm người đẹp hơn trước để đấu tranh giành lại hạnh phúc bị cướp đoạt. Cô gái mồ côi và người chồng được đoàn tụ sau một thời gian dài chia ly, đau khổ và tìm kiếm vô vọng. Cuối cùng mẹ con mụ dì ghẻ mới bị trừng phạt bằng cái chết. Truyện Kông Chuy Pát Chuy của Hàn Quốc [13, tr 60-66] cũng kể về nhân vật Kông Chuy - cô gái con riêng tốt bụng đã bị mẹ con mụ dì ghẻ giết hại (Pát Chuy đẩy Kông Chuy ngã xuống ao gây ra cái chết của Kông Chuy) để thay thế Kông Chuy làm vợ quan huyện. Cô gái con riêng đã phải hóa kiếp hai lần, biến thành: bông hoa – viên ngọc đỏ và từ viên ngọc đỏ trở lại làm cô gái đẹp để đấu tranh giành lại hạnh phúc của mình. Kông Chuy đã nói rõ tội lỗi của Pát Chuy với quan huyện để quan huyện phân xử. Chính quan huyện đã giết chết Pát Chuy. Trong truyện Dêvkî Rânî của Ấn Độ [12, tr160-164], vào ngày ấn định làm đám cưới, bà mẹ kế đã cắm một cây kim dài, nhọn được phù phép vào đầu cô gái con riêng xinh đẹp là Dêvkî Rânî, khiến cô biến thành một con chim nhỏ rực rỡ, bay vút vào không trung rồi sau đó bà mẹ kế đưa con gái mình thế chỗ. Cuối cùng Dêvkî Rânî được trở lại làm người, đoàn tụ và kết hôn với tiểu vương. Hai người chung sống hạnh phúc cùng con bò mãi mãi. Còn người mẹ kế và con gái Mutkulî Rânî bị tiểu vương trừng phạt bằng cách cắt mũi và tai rồi đuổi cả hai mẹ con ra khỏi vương quốc. Riêng truyện của Trung Quốc, qua khảo sát chúng tôi thấy tồn tại cả hai dạng kết cấu của type truyện Cô Lọ Lem. Truyện Nàng Diệp Hạn của Trung Quốc [8, tr226-228] cũng có kết cấu đơn giản như truyện của Nhật Bản. Truyện dừng lại ở chỗ nàng Diệp Hạn đi vừa chiếc giày vàng và được vua Đà Hãn đem về nước cùng với nắm xương cá. Hai mẹ con mẹ ghẻ của Diệp Hạn thì bị phi thạch từ trên trời bắn trúng và chết cả hai. Tuy nhiên, truyện có thêm đoạn cuối nói về việc “vua Đà Hãn cần nhiều vàng bạc châu báu, đòi hỏi ở xương cá nhiều quá, cho nên một năm sau nắm xương cá không hiệu nghiệm nữa. Vua bèn đem chôn xương cá ở bờ biển, lấy một trum đấu hạt châu chôn theo, chung quanh lát vàng. Về sau, nhà vua bị bề tôi phế truất. Nhà vua ra chỗ chôn xương cá ngày trước tìm vàng ngọc, nhưng nước biển đã cuốn đi mất tất cả…” [8, tr228]. Trong khi đó, truyện Muội Sẹo và Muội Xinh [11, tr222-226] của dân tộc Hán Trung Quốc có thêm phần sau giống truyện của Việt Nam, Hàn Quốc và Ấn Độ. Cô gái con riêng Muội Xinh sau khi bị Muội Sẹo đẩy xuống giếng giết hại đã phải hóa kiếp thành chim sẻ và cây tre, rồi sau đó mới trở lại làm người. Muội Xinh còn phải trải qua nhiều thử thách do Muội Sẹo đặt ra để so tài như: dẫm lên quả trứng gà, trèo lên bậc thang dao, thi nhảy vạc dầu. Cuối cùng, cô gái con riêng mới giành được chiến thắng. Còn mẹ con mụ dì ghẻ bị trừng phạt: cô em chết do rơi xuống vạc dầu nóng bỏng, dì ghẻ chết do sợ hãi khi nhìn thấy cái đầu cháy đen của con. Cũng phải nói thêm rằng, type truyện Cô Lọ Lem của Trung Quốc có rất nhiều bản truyện. Theo học giả Trung Quốc Lưu Hiểu Xuân: “Hiện đã nắm được 72 dị bản của 21 dân tộc Trung Hoa” [11, tr6]. Trong luận án tiến sĩ “So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam”, Đường Tiểu Thi cũng đã khảo sát 47 bản truyện của miền Nam Trung Quốc. Hầu hết các truyện của Trung Quốc đều có kết cấu phức tạp gồm sáu phần như trên. Đây là lý do tại sao trong bài viết này, chúng tôi lại chọn hai bản truyện của Trung Quốc để phân tích. Căn cứ vào quy luật phát triển từ đơn giản đến phức tạp của kết cấu truyện, chúng tôi đồ rằng dạng truyện kết thúc ở chỗ cô gái lấy chồng và mẹ con mụ dì ghẻ bị trừng phạt là dạng truyện cổ hơn như truyện nàng Diệp Hạn. Đây được cho là văn bản cổ nhất của Trung Quốc do Đoàn Thành Thức đời Đường ghi trong cuốn Dậu Dương tạp trở ghi chép về type truyện này. Còn những truyện sau này ở dạng phức tạp hơn, có thêm phần tiếp theo của truyện. Như vậy, xét về mặt kết cấu của những truyện này, chúng ta thấy có sự khác nhau khá rõ. Những phần tiếp theo của truyện đã giúp tăng thêm sự hấp dẫn, sự sinh động đầy kịch tính của cốt truyện. Nó phản ánh cuộc đấu tranh giữa những xung đột trong gia đình nhưng cũng là cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội cũ đầy gay go, gian khổ - mà nhân vật chính – cô gái con riêng tốt bụng phải trải qua những biến cố cực kỳ ác liệt để cuối cùng chiến thắng, giành lại được hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp. Điều này thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của tác giả dân gian trên mặt trận chống lại cái ác.2. Những motif cơ bản của type truyện
Qua khảo sát type truyện Tấm Cám của Việt Nam và Cô Lọ Lem của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, chúng tôi thấy có một số motif chính xuyên suốt các type truyện. Đó là các motif: - Đứa trẻ mồ côi bị ngược đãi - Sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên - Motif sự tái sinh, thay đổi hình dạng - Cái thiện được ban thưởng và Cái ác bị trừng phạt2.1. Motif Đứa trẻ mồ côi bị ngược đãi
Motif Đứa trẻ mồ côi bị ngược đãi trong type truyện Cô Lọ Lem thể hiện mối quan hệ xung đột giữa dì ghẻ con chồng, xung đột giữa cô gái con riêng và người chị em cùng cha khác mẹ. Giáo sư Đinh Gia Khánh trong Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám đã lý giải nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện chủ đề dì ghẻ con chồng là vì “Gia đình có tính chất phụ quyền, với chế độ tư hữu, là tế bào của xã hội phong kiến, với sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn, với việc người bóc lột người. Người bóc lột người không những chỉ là hiện thực chủ yếu của xã hội phong kiến mà còn là một hiện thực của gia đình phong kiến. Vì vậy, không những có mẫu thuẫn giữa kẻ có quyền hành và người yếu thế, giữa kẻ giàu có và người nghèo khổ, giữa kẻ “ngồi mát ăn bát vàng” và người “hai sương một năng” trong xã hội mà lại còn có mâu thuẫn giữa vợ cả và vợ lẽ, dì ghẻ và con chồng, bố dượng và con vợ, anh cả và em út… trong gia đình”. Ông cho rằng “những mâu thuẫn đó có tính chất phổ biến trong xã hội có giai cấp ở tất cả các nước. Cũng chính vì vậy những mâu thuẫn đó cũng là những chủ đề phổ biến cho truyện cổ tích ở tất cả các nước”. [8, tr32-33] Cô gái con riêng mồ côi trong type truyện “Tấm Cám” của Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ đều ở trong hoàn cảnh phải sống với mụ dì ghẻ độc ác và cô con gái lười biếng của mụ. Cô gái con riêng phải làm quần quật suốt cả ngày trong lúc mẹ con mụ dì ghẻ sống ăn chơi nhàn nhã. Không những thế, cô gái mồ côi còn bị mắng chửi vô cớ, bị hắt hủi, bị chà đạp. Cô gái con riêng ngây thơ, hiền lành luôn bị mẹ con mụ dì ghẻ lừa dối và xúc phạm. Trong truyện Tấm Cám của Việt Nam, cô con gái riêng – Tấm “phải làm lụng quần quật suốt ngày; còn Cám được mẹ nuông chiều, chơi dông dài ngày nọ qua ngày kia”. Cô bị con gái mụ dì ghẻ trút mất giỏ cá, bị mụ dì ghẻ lừa đi chăn trâu “đồng xa” để bắt mất con bống cô nuôi, bị mụ dì ghẻ lừa trèo lên cây cau hái quả để cúng bố rồi chặt đổ cây để giết cô gái. Trong truyện Kông Chuy Pát Chuy của Hàn Quốc, cô gái con riêng bị mụ dì ghẻ lừa đưa cho một cái cuốc gỗ sắp gãy bảo đi cuốc nương. Trong truyện Benizara và Kakezara của Nhật Bản, cô gái con riêng Benizara cũng bị bà mẹ kế đối xử “rất độc ác”. Mụ sai cô vào rừng nhặt hạt dẻ nhưng lại đưa cho cô “một chiếc giỏ bị thủng đáy” còn đưa cho con gái mụ một chiếc giỏ tốt. Cô gái con riêng trong truyện Dêvkî Rânî của Ấn Độ bị mẹ kế đối xử rất tàn nhẫn “bắt em phải chịu đủ mọi sỉ nhục”. Ngày qua ngày, cô bé đi chăn bò với một mẩu bánh khô làm đồ ăn và ít (hoặc không) quần áo che chở khỏi nắng, mưa. Trong truyện Nàng Diệp Hạn của Trung Quốc thì sau khi cha chết, mẹ ghẻ hành hạ cô gái con riêng, “thường sai cô đi hái củi ở những nơi nguy hiểm và gánh nước ở những chỗ sâu” [8, tr 226]. Mụ còn sai cô đi gánh nước ở xa để bắt cá mổ ăn. Trong lúc mẹ con mụ dì ghẻ ăn mặc đẹp đẽ để đi dự lễ hội (Tấm Cám, nàng Diệp Hạn), hoặc đi về bên ngoại ăn tiệc (Kông Chuy Pát Chuy), đi xem kịch (Benizara và Kakezara) thì mụ dì ghẻ độc ác giao cho cô gái con riêng những nhiệm vụ nặng nề và bắt cô phải hoàn thành. Những nhiệm vụ đó thường là: phải giã ba thúng thóc và ba thúng kê, bắt đổ đầy nước vào cái chum bị thủng đáy, bắt nấu cơm trong cái nồi thủng trôn (Kông Chuy Pát Chuy); ở nhà coi vườn (nàng Diệp Hạn); làm một số lượng công việc lớn (Benizara và Kakezara) hay nhặt thóc trộn gạo, nhặt kê trộn đậu, cắt cỏ…trong type truyện Tấm Cám của Việt Nam. Cô gái con riêng không những bị đối xử bất công mà còn liên tục bị mụ dì ghẻ hãm hại, phải chết đi sống lại nhiều lần, phải hóa kiếp nhiều lần để cuối cùng mới được trở lại làm người. Motif Đứa trẻ mồ côi bị ngược đãi vừa có ý nghĩa phê phán giai cấp bóc lột vừa phản ánh những hình thức thử thách đặt ra cho nhân vật.- Motif Sự giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên hay Sự trợ giúp thần kì
- Motif sự tái sinh, thay đổi hình dạng
- Motif Cái thiện được ban thưởng và Cái ác bị trừng phạt
Kết luận
Như vậy, qua khảo sát nội dung, kết cấu và những motif chính cấu thành nên cốt truyện của một số truyện tiêu biểu trong type truyện Cô Lọ Lem ở một số nước châu Á: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ, chúng tôi nhận thấy type truyện này ở các nước có nhiều nét tương đồng và dị biệt. Từ đó cho thấy quy luật vận động trong sáng tác dân gian, trong quá trình nẩy sinh và lưu truyền đã có sự bổ sung và sửa đổi theo điều kiện lịch sử - xã hội và hệ tư tưởng ở các dân tộc. Trong quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, bên cạnh sự bảo lưu các yếu tố văn hóa của cư dân bản địa còn là sự bổ sung vào đó những yếu tố mới cho phù hợp với thực tế xã hội của dân tộc mình. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Từ nền tảng cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, dân tộc Việt Nam vẫn luôn giữ được những nét truyền thống của văn hóa bản địa kết hợp cùng những yếu tố giao thoa với các nền văn hóa khác như giao thoa văn hóa với Ấn Độ và Trung Hoa trong tiến trình phát triển. Việt Nam và Trung Quốc là những nước gần nhau về địa lý, có nhiều nét tương đồng về văn hóa và cội nguồn dân tộc. Còn Việt Nam và Nhật Bản, Hàn Quốc tuy cách nhau về địa lý, khác biệt nhau về cấu trúc xã hội, tiến trình lịch sử và tính cách dân tộc, song trong nhiều phương diện văn hóa, Việt Nam và Nhật Bản, Hàn Quốc lại có những điểm tương đồng. Điều đó có thể lý giải bởi ba nước đều nằm trong khu vực Đông Á, Châu Á; đều có sự giao lưu tiếp biến văn hóa với Trung Hoa và Ấn Độ. Cơ sở hình thành và chi phối những điểm tương đồng về kiểu truyện dân gian trong văn hóa Việt Nam và một số nước châu Á chính là cơ tầng văn hóa dân gian với một phức thể văn hóa lúa nước và ở thái độ tiếp nhận cởi mở, hòa đồng nhiều luồng tư tưởng văn hóa khác nhau của cư dân châu Á.TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đỗ Thu Hà (2015), Giáo trình văn học Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hiền (1996), “Nghiên cứu truyện dân gian Việt Nam theo bảng mục lục tra cứu típ và mô tip truyện cổ dân gian của Antti Aarne và Stith Thompson”, Tạp chí Văn hoá dân gian số 2, tr 13-19.
- Nguyễn Thị Huế chủ biên (2012), Từ điển Type truyện dân gian Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
- Đặng Văn Lung (Chủ biên) (1998), Lưu Thị Sinh, Đặng Linh Chi, Chi liêu, Trần lệ Cung, Truyện cổ Hàn Quốc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 238-246
- Nguyễn Thị Nguyệt (2010), Khảo sát và so sánh một số típ và mô típ truyện kể dân gian Việt Nam - Nhật Bản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nhiều tác giả (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), (2004), Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập 6, Truyện cổ tích thần kỳ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Đinh Gia Khánh (1999), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.
- Jeon Hye Kyung (2009), Nghiên cứu so sánh truyện Kông Chuy Pát Chuy của Hàn Quốc và truyện Tấm Cám của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3/2009, tr72-87.
- Park Yeon Kwan (2001), Bước đầu so sánh truyện cổ tích Việt Nam và Hàn Quốc, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
- Đường Tiểu Thi (2008), So sánh kiểu truyện Cô Lọ Lem của một số dân tộc miền Nam Trung Quốc với kiểu truyện Tấm Cám của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Khoa Văn học, Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN.
- D. H. Wadia (1894), Folklore in Western India, Indian Antiquary, vol XXIII, Bombay (Dévki Rání, tr 160 – 164)
- Viện Nghiên cứu văn hóa tinh thần Hàn Quốc (sưu tầm) (1984), Tổng quan văn học truyền khẩu Hàn Quốc 1-9, Viện Nghiên cứu Hàn Quốc học Trung ương xuất bản, tr60 - 66.